Viết, sợ rồi sẽ quên...( CTV)
Dấu tích hoang tàn của trường Tiểu họcCộng đồng Hưng Đạo. Cổng trường dời vào trong, sát Văn phòng. |
Trường Hưng Đạo (tên
đầy đủ là Trường Tiểu học Cộng đồng Hưng Đạo) là trường cấp I công
lập đầu tiên của khu Trần Hưng Đạo (dân ở đây thường gọi là khu
Ba-toa, do có 1 lò mổ heo ở giữa chợ - Chợ Ba toa). Còn Trường Công
lập cấp I thứ nhì (Trường “Ấp chiến lược”) nằm ở khu “Trại Tàu”
phía Đền Ông Cảo đi lên đồi khoảng 500 mét. Trường “tư thục” thì có
trường “Ông Giáo Thặng”, ”Ông Giáo Vàng” nổi tiếng.
Trường Hưng Đạo là nơi
học tập chính cho các cháu người Kinh và người Tày, Nùng trong vùng.
Các bạn người Thượng sẽ học tại Trường Tiểu học Sắc tộc Nguyễn Du,
cạnh Biệt điện.
Những năm 1960, vùng
Trần Hưng Đạo khá đa dạng về sắc dân.
¨
Xa “trung tâm - Chợ Ba-toa” nhất là 3 “Trại Tàu” (là nơi
định cư của các người Nùng, Tày di cư từ miền Bắc vào từ 1954, gồm
Trại Tàu vùng Thác Nhà đèn, xa nhất; Trại Tàu vùng nghĩa địa Chùa Trong, gần Đền Ông Tựu; và Trại Tàu vùng
Đền Ông Cảo, gần nhất).
¨
Kế đến là khu người Kinh, chủ yếu là dân di cư từ phía
Bắc vào (dân 54) gồm nhiều khu (xưa gọi là Liên gia)
- Khu Chùa trong (nơi
tọa lạc ban đầu của Chùa Phổ Minh bằng gỗ lợp tôn), có nhà Thầy Vũ
Văn Sum -thân phụ anh Vũ Tiến Toàn, Bác Vệ, Bác Trương Minh Thi - thân
phụ anh Minh Thư, Minh Thắng...
- Khu Chùa “ngoài” + khu
Đền Cô Chung (có nhà Bác Đức “đốt”, Bác Liêu, Bá Mẫn, Bá Thành, Cô
Tình, Ông Trùm Chuông, Bác Thụ, Chú Chấn, Bác Lý Trình, anh Tưởng
lái xe lam...)
- Khu piscine (có nhà
Thầy Huy Quang dạy vẽ ngó xuống hồ bơi, Thầy Nhạc dạy Lý), nhà bác
Phạn (gia đình anh Đắc Hùng, anh Học, Thắng)
- Khu xóm nhãn (do trồng
nhiều nhãn, có nhà Bà Bún) + khu Thăng Long (có tiệm làm cà rem Thăng
Long, gần nhà Thấy Bách, anh Bật, chị Khuê, anh Bùi Trung Anh...)
- Khu Ty Mục Súc (có
nhà người đẹp Đoàn Thị Hậu),
- Khu Ba-toa (có nhà
Bác Chí Y tá, Bá Chấp, Bác Tư Nhài, Ông Quản gầy, Ông Quản Truyền,
Ông Lý Khải, Bác Nhuệ - gia đình anh Dương Đức Nhuệ, Dương Đức Tam - quán
Bà Trạch, quán Ông “Xập nhì”, Ông Mười mổ heo...) cùng Nhà thờ của
Giáo xứ Hưng Đạo.
- Khu Ty Canh Nông (sau
Lao xá, gần Tiểu Khu...) là triền đồi ngó xuống “hồ trên” có nhà anh
Kình cà rem, anh Nghi lùn, nhà Bà Chi, nhà Cô Minh đực... Nhà Bá
Viện, Bá Tình lúc xây chùa mới cũng dời về đây.
- Ngoài ra còn có 2 xóm người Thượng (Ê-đê), một ở đầu ‘hồ
trên”, gần nhà Ông Ẩm (thân phụ anh Hồng “méo”, anh Nghi “lùn” đối
diện Đền Cô Chung...) một ở sau Trung tâm Tuyển mộ nhập ngũ (trên ngọn
đồi đối diện với nhà Thầy Nhạc, chị Phương Huệ, anh Nam Hùng)
Ba “Trại Tàu”, khu Chùa
“trong” & khu Chùa “ngoài” và một phần Xóm nhãn sinh sống chủ yếu
bằng nghề trồng rau (giống như vùng Suối Đốc học vậy) hoặc nuôi heo,
làm đậu khuôn, làm bún. Các khu khác thì thường là gia đình binh sĩ,
công chức hay buôn bán nhỏ lẻ, có 1 số nhà làm kẹo kéo đậu phộng.
Nói chung, khu Hưng Đạo là vùng nghèo thuộc loại nhất nhì thị xã.
Khu Hưng Đạo lại khá “nổi tiếng” với sự có mặt của anh Thanh “lùn”, anh
Toán khoèo, anh Quang “cụt”, anh Đắc Hùng ‘cụt”, anh Khoa ‘mập”, anh
Khoa “dím”, anh Điền, anh Chung Cấn... cùng một đám lau nhau ăn theo.
Chính đám lau nhau này lại hay làm mất uy đàn anh do ưa chặn đường
trấn lột hoặc gây sự đối với dân “phố” khi số này xuống tắm tại
“hồ Ông Tỉnh”.
Giữa Văn phòng và dãy phòng học này xưa có đặt 1 bàn pingpong |
Trường Hưng Đạo là một trường nhỏ tí, nghèo xơ xác với khoảng 15 phòng học vách ván, mái tôn, nền ximăng, gồm 5 khối lớp (Năm, Tư, Ba, Nhì, Nhất), mỗi khối lại chia thêm thành lớp A, B,... học sinh Tày Nùng học chung lớp với học sinh Kinh (Bắc 54 là chính). Chương trình học cũng như các trường khác: Đức dục (Công dân giáo dục), Quan sát (sau này lên Trung học gọi là môn Vạn vật), Toán, Việt Văn (trước có học cả Quốc văn giáo khoa thư, sau đó là Tân Việt văn), Sử ký, Địa lý, Thể dục, Thủ công, Kỹ thuật - chủ yếu là nông nghiệp. Khoảng 1965-1968 có cả sách “Em tập tính tốt”, “Em bé tôi” cho phần Công dân giáo dục nữa. Mỗi giáo viên dạy một lớp sáng & một lớp chiều (dạy tất cả các môn), học sinh chỉ học 1 buổi, buổi còn lại đi ... bắt dế, bắn chim, bắn bi, hớt cá, làm vườn, làm rẫy hoặc đi làm linh tinh kiếm sống.
Trường có nhiều khu vui chơi rất tuyệt vời (ít nhất là đối với lứa tuổi lên mười) như sân banh (cả trường có duy nhất 1 trái banh da te tua), khu hầm bí mật, hàng cây hoa Đại, sân đất đỏ (khoét lỗ bắn bi hay chơi nắp keng chọi lô...) rất đã và cả suối bà Kền trước mặt nữa. Mỗi khi mưa lớn thì khỏi học (do mái tôn ồn quá), học sinh nhào ra tắm mưa trên sân lầy đất đỏ... Mãi sau này trường mới có đồng phục áo trắng quần soọc xanh/quần dài đen (nhưng chỉ mặc vào Thứ Hai chào cờ), trước đó thì mặc sao cũng được; có gần nửa lớp đi chân không đi học nữa kìa. Khoảng năm 1965-1966, trường Hưng đạo mới có máy “u-bẹc-lơ” phát nhạc vào giờ ra chơi qua cái loa bằng sắt to đùng, có mi-cờ-rô để Thầy Hiệu Trưởng nói “cái gì đó” vào buổi chào cờ. Gọi là nói “cái gì đó” bởi nó cứ rè rè, tậm tịt có nghe được cái gì đâu. Có một thời gian ngắn, học sinh còn được uống “sữa Mỹ” tại cổng trường rồi mới vào lớp, đôi khi có cả nửa ổ bánh mì + sữa bột nữa. Phòng học được trang hoàng theo từng tổ (lúc đó gọi là toán). Khu trang hoàng riêng biệt cho từng toán ở trên tường, được dán đầy giấy “xúc-xích”, hoa xanh đỏ, bài viết bài vẽ màu mè hoặc cả hình thủ công như trái chuối, cái hộp, con chim, con kỳ lân nữa.
Trường có nhiều khu vui chơi rất tuyệt vời (ít nhất là đối với lứa tuổi lên mười) như sân banh (cả trường có duy nhất 1 trái banh da te tua), khu hầm bí mật, hàng cây hoa Đại, sân đất đỏ (khoét lỗ bắn bi hay chơi nắp keng chọi lô...) rất đã và cả suối bà Kền trước mặt nữa. Mỗi khi mưa lớn thì khỏi học (do mái tôn ồn quá), học sinh nhào ra tắm mưa trên sân lầy đất đỏ... Mãi sau này trường mới có đồng phục áo trắng quần soọc xanh/quần dài đen (nhưng chỉ mặc vào Thứ Hai chào cờ), trước đó thì mặc sao cũng được; có gần nửa lớp đi chân không đi học nữa kìa. Khoảng năm 1965-1966, trường Hưng đạo mới có máy “u-bẹc-lơ” phát nhạc vào giờ ra chơi qua cái loa bằng sắt to đùng, có mi-cờ-rô để Thầy Hiệu Trưởng nói “cái gì đó” vào buổi chào cờ. Gọi là nói “cái gì đó” bởi nó cứ rè rè, tậm tịt có nghe được cái gì đâu. Có một thời gian ngắn, học sinh còn được uống “sữa Mỹ” tại cổng trường rồi mới vào lớp, đôi khi có cả nửa ổ bánh mì + sữa bột nữa. Phòng học được trang hoàng theo từng tổ (lúc đó gọi là toán). Khu trang hoàng riêng biệt cho từng toán ở trên tường, được dán đầy giấy “xúc-xích”, hoa xanh đỏ, bài viết bài vẽ màu mè hoặc cả hình thủ công như trái chuối, cái hộp, con chim, con kỳ lân nữa.
Văn Phòng (phòng bên trái) + Thư viện (bên phải) nhỏ xíu |
Tuổi nhỏ ham chơi, ít
khi để ý đến Thầy Cô, chỉ nhớ đã từng học với Thầy Cát (lớp Năm,
lớp 1 bây giờ), Cô Nhạn (lớp Tư)... Thầy Trương Công Trứ (lớp Nhất).
Hiệu Trưởng trường trước
là Thầy Chu Duy Thiều, rồi đến Thầy Trương Công Trứ (khoảng 1968),
cùng các Thầy Cô khác... các anh chị, các bạn có ai biết hiện giờ các
Thầy Cô ra sao ? Năm mươi năm trôi qua... những người muôn năm cũ ở đâu
bây giờ...
Bác Uẩn (gác-dan) kiêm giữ kho
nông cụ (cuốc cào xẻng thúng...) nghe nói cũng đã mất lâu rồi.
Thương hải tang điền, ngôi trường
ngày xưa giờ đã giải thể, toàn bộ học sinh tứ tán về các ngôi
trường mới xây sau đó. Các Thầy Cô xưa lưu lạc không biết nơi nào.
Ngôi trường cũ được chia cho một
số người mới đến (có một số là giáo viên cũ) để ở. Nói chung, so
với 50 năm trước, những căn hộ “mới” này chẳng khang trang hơn được là
bao. Một cảm giác hụt hẫng đến nhói lòng khi nhìn lại vẻ lở lói
của toàn bộ khu trường (giống y như vẻ lở lói của toàn bộ 2 cái hồ
khu piscine ngày xưa). Trường làng tôi cây xanh lá vây quanh... làm gì
còn có nữa.
Cây Quay trước lớp, cây Xoài
"đê" cổ thụ to đùng (đầu sân banh, gần hầm bí mật) cũng
không còn. Cây Bằng lăng ngay trước sân banh cũng mất tiêu. "Hầm bí
mật" giờ không còn dấu vết dù chỉ 1 gốc tre. Hàng cây Đại cũng
mất dấu gần hết... Có còn chăng là những vách ván bằng gỗ dầu,
dày ngót 2 phân đóng ngang làm tường lớp giờ cũng bạch phếch, mủn
dần theo thời gian, còn chăng là những mái tôn gỉ sét úp lên các
khung nhà gỗ xiêu vẹo, chông chênh.
Các anh chị cũ Lê Chân Long, anh
Đoàn Đình Năm, Lê Thị Trung Trinh, Dương Đức Nhuệ, Dương Đức Tam, Nguyễn
Tường Lân, Nguyễn Đắc Lộc, Kình, Lê Văn Nghi, Phạm Ngọc Nhân, Nguyễn
Văn Hùng, Nam Hùng, Phương Huệ, Trương Minh Thư, Minh Thắng, Cấn Đình
Chính, Cấn Đình Chủng... hôm nao dừng bước giang hồ, về xem trường
cũ, hỏi mình buồn không.
Nghe mấy người già kể lại rằng,
hồi mới di cư vào đây có một ông thầy địa lý người Tàu đã xem thế
đất từ khu hồ Lao (của lao xá, Nhà đày BMT, Trung tâm cải huấn sau
này) đến đền ông Cảo (Khu Dưỡng ngư) và cho rằng toàn khu này âm khí
quá nhiều, không thể nào vượng được;
muốn khá hơn, dứt khoát phải rời bỏ thế đất “đuôi con bọ cạp”, yết
vĩ, ngô công vĩ gì gì đấy thì mới hy vọng ăn nên làm ra.
Khu đồi trước cái “hồ trên” ngày
xưa vốn là 1 nghĩa địa mênh mông dành cho các tù nhân thuộc Nhà đày
BMT và phu cao su (thuộc Ty Canh nông thời ấy);
những năm 70 khi đào giếng, san nền vẫn còn thấy hài cốt vương vãi.
Khu đền Cô Chung ngó qua đồi bên kia là khu Lao xá, (ngay gốc cây ổi sau
nhà gia đình anh Trương Minh Thư, Minh Thắng ở một thời gian) còn cả 1
lô 1 lốc nón lính thời Pháp vỡ nát lẫn lộn với vài khẩu
“mút-cơ-tông” gãy rời, hoen gỉ… Có lẽ vậy chăng, nên cả xóm Hưng Đạo
vẫn cứ mãi chìm trong vẻ u u, buồn buồn, thảm thảm suốt cả 50 năm
qua. Nếu quả như vậy, ngôi trường Hưng Đạo tàn lụi cũng là điều dễ
đoán.
Ngôi trường Hưng Đạo tàn lụi cũng là điều dễ đoán. |
3 nhận xét:
Bài viết mang cả một thời ký ức ấu thơ BMT đến đánh thức tuổi già xa quê.
Cám ơn tác giả. Viết sử BMT đi. Tôi ủng hộ việc xuất bản.
Nhìn ảnh tác giả trong bài, muốn "nện" cho hai xị rượu quá!
Bai viet hay.
Xin cho biet quy danh cua tac gia. Biet dau not ngay nao do minh se gap nhau ... (xin loi khong bo dau).
DDN
Đăng nhận xét