Trong
thế giới văn học nghệ thuật Trung Hoa và Việt Nam, thi ca miêu tả đề cập đến
mùa xuân... rất sớm sủa và phong phú. Ngay từ thời Hán, Đường của Trung Quốc,
cũng như thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn... ở nước ta, các văn, thi nhân đã gửi gấm
những tâm tình riêng tư hoặc những nỗi vui - buồn chung của phận người, của cuộc
đời thường... trên từng bước xuân về.
Gia
Cát Khổng Minh từ đời Tam Quốc, thế kỷ thứ 2 sau Tây lịch, đã cảm hoài tha thiết
trước hình ảnh một khóm mai gầy đơn độc bên dòng suối vắng, lạnh lùng đón xuân
một mình, giữa tuyết giá tàn đông:
Nhất
dạ bắc phong hàn
Vạn
lý đông vân hậu.
Trường
không tuyết loạn phiêu,
Cải
tận giang san cựu.
Ngưởng
diện quan thái hư,
Nghi
thị ngọc long đấu.
Phân
phân lân giác phi,
Khoảng
khắc biến vũ trụ.
Kỵ
lư quá tiểu kiều,
Độc
thán mai hoa sấu.
(Trích
từ tập Lương Phủ ngâm của Gia Cát Lượng)
Tử
Vi Lang dịch ra như sau:
Một
đêm gió bấc lạnh,
Muôn
dặm bộn mây dày.
Hoa
tuyết tung tơi tả,
Non
sông chợt đổi thay.
Ngửa
mặt trông vũ trụ,
Tưởng
rồng chọi trên mây.
Cả
bầu trời trắng xóa
Tua
tủa vảy rồng bay.
Cởi
lừa qua cầu nhỏ,
Thương
tiếc khóm mai gầy.
Vào
thế kỷ thứ VIII, đời nhà Đường, thi hào Lý Bạch, được người đương thời ca tụng là
một đấng thi tiên, đã thông cảm sâu sắc tâm tình cô quạnh của những nàng chinh
phụ, khi ngọn gió xuân ấm áp thổi về, làm lay động màn trướng lượt là chốn khuê
phòng lạnh lẽo:
Yên
thảo bích như ti,
Tần
tang đê lục chi.
Đương
quân hoài qui nhật,
Thị
thiếp đoạn trường thì.
Xuân
phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi?
(Xuân tứ)
Nguyễn
Thủy Nam dịch ra như sau:
Ý xuân
Cỏ
Yên xanh mượt màu tơ
Dâu
Tần biêng biếc rậm bờ đường đê.
Khi
chàng rộn rã tình quê,
Là
lòng thiếp chợt bộn bề xôn xao...
Gió
xuân kia lạ làm sao
Đổ
Phủ, một bậc thi thánh khác đời Đường, cùng thời với Lý Bạch, lại cảm xuân qua
một mối sầu chung trong cảnh quốc phá gia vong của một thời loạn ly
chinh
chiến:
Quốc
phá sơn hà tại,
Thành
xuân thảo mộc thâm.
Cảm
thời hoa tiễn lệ,
Hận
biệt điểu kinh tâm.
Phong
hỏa liên tam nguyệt,
Gia
thư để vạn câm (kim).
Bạch
đầu tao cánh đoản,
Hồn
dục bất thăng trâm.
(Xuân vọng)
Nguyễn
Thủy Nam dịch như sau:
Ngắm mùa xuân
Loạn
ly sông núi còn kia,
Thành
xuân cây cỏ bốn bề xanh um.
Cảm
thời hoa cũng rưng rưng,
Biệt
ly xui khiến não nùng tiếng chim.
Ba
trăng giặc giã triền miên,
Thư
nhà quý tựa muôn nghìn ngọc châu.
Ngu
ngơ tóc ngắn bạc đầu,
Nhà
thơ trẻ Trương Nhược Hư say cảm xuân tình với cảnh sắc triền miên trời - trăng
- mây - nước rộn rang; với hoa - lá xôn xao; với nguồn thơ lai láng; với đậm đà
nét bút thanh xuân... Cả một tâm hồn thơ tha thiết, xao xuyến cảm hoài với trời
xuân, sông xuân, trăng xuân và hoa xuân, như một nét đẹp huyền hoặc, bất tuyệt
của trời đất, của thiên nhiên, hoà nhập với lòng người phơi phới trào dâng giữa
lúc xuân về:
Xuân
giang triều thủy liên hải bình
Hải
thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
Diễm
diễm tùy ba thiên vạn lý,
Hà
xứ không gian vô nguyệt minh?
Giang lưu uyển chuyển mãn phương diện,
Nguyệt
chiếu hoa lâm giai như tiễn.
Không
lý lưu sương bất giác phi,
Dinh
thượng bạch sa khan bất kiến.
Giang
thiên nhất sắc vô tiêm trần,
Hạo
hạo không trung cô nguyệt luân,
Giang
bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?
Giang
nguyệt hà niên sơ kiến nhân?
Nhân
sinh đại đại vô cùng dĩ,
Giang
nguyệt niên niên vọng tương tự.
Bất
tri giang nguyệt chiếu hà nhân?
Đản
kiến trường giang tống lưu thủy...
Trăng nhô đầu sóng tơi bời triều lên. |
(Xuân
giang hoa nguyệt dạ - trích đoạn)
Nguyễn
Thủy Nam dịch ra như sau:
Đêm trăng và Hoa trên dòng sông xuân (trích đoạn)
Sông
xuân nước chảy liền khơi,
Trăng
nhô đầu sóng tơi bời triều lên.
Trăng
soi vạn dặm triền miên,
Sông
xuân ngời sóng lênh đênh ánh vàng.
Nước
tuôn còn đẫm mùi hương,
Trăng
hòa nước, ngát rừng thơm hoa đời.
Sương
còn lãng đãng chơi vơi,
Lung
linh bãi cát chân trời nơi đâu?
Sông xuân trời - nước một màu,
Trăng
treo vằng vặc giữa bầu không trung.
Bên
sông ai đã ngắm trăng?
Trăng
trôi nước chảy đã từng thấy ai?
Nhân
sinh vô tận cảm hoài,
Năm
năm trăng - nước miệt mài cùng nhau.
Biết
chăng trăng nước giang đầu,
Chiếu
soi ai đó, để sầu cho ai?
Trở
về với thi ca cổ điển Việt Nam, ngay từ thời Lý - Trần, cách đây gần một nghìn
năm, những bài thơ xuân đầu tiên thường là danh tác của các thiền sư, vì vậy những
bài thơ xuân thường phảng phất phong vị thiền học như bài thơ “Cáo tật thị chúng” của thiền sư Mãn Giác đời Lý sau đây:
Xuân
khứ bách hoa lạc,
Xuân
đáo bách hoa khai.
Sự
trục nhãn tiền quá,
Lão
tùng đầu thượng lai.
Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai.
Ngô
Tất Tố dịch ra như sau:
Xuân
đi trăm hoa rụng,
Xuân
đến trăm hoa cười.
Muôn
việc trôi trước mắt,
Trên
đầu già tới rồi!
Đừng
tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm
qua sân trước một cành mai...
Bài
thơ được sáng tác lúc thiền sư ngọa bệnh, vậy mà hồn thơ cứ phơi phới dâng trào,
nhà sư vẫn hân hoan thấy được cái chân như, cái Phật tính của đại chúng, bàng bạc
giữa miền tâm thức, giữa thiên nhiên, giữa trời đất, qua hình ảnh một cành mai
nở muộn màng, lẻ loi trước sân chùa, như một mầm sống thiêng liêng muôn đời bất
diệt:
Đừng
tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm
qua sân trước một cành mai!
Các
vua chúa đời Trần của nước ta cũng để lại nhiều bài thơ xuân, lời lẽ tươi đẹp, ý
tứ thâm trầm, bất hủ... như những bài thơ xuân sau đây của Vua Trần Nhân Tông,
sáng tác vào cuối thế kỷ XIII:
Bất
tri xuân dĩ quy.
Nhất
song bạch hồ điệp,
Phách
phách sấn hoa phi.
Nguyễn
thủy Nam dịch như sau:
Sớm
mở tung cửa sổ,
Đâu
biết xuân đã về.
Tung
tăng đôi bướm trắng,
Bay
lượn vào hoa kia!
Đó
là tâm tình sôi nổi của một vị quân vương, đang tuổi xuân xanh mà tình xuân đang
dâng lên chan chứa, khác hẳn với cái nhìn trầm tư sâu lắng, cái nhìn của một bậc
chân tu, đạo cao đức dày, một khi nhà vua đã đứng tuổi, bén say mùi đạo, thấy lòng
thanh thản, an nhiên tự tại trong lúc xuân về... Lúc bấy giờ nhà vua đã giã từ
cung vàng điện ngọc, trở thành một vị đầu đà trên núi Yên Tử, là Điều Ngự Giác
Hoàng, Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam:
Chim
hót dề dà, liễu tả tơi
Thềm
hoa mây phủ, bóng nhà dài.
Khách
vào không hỏi gì nhân sự
Tưạ
bức lan can, chỉ ngắm trời.
(Xuân
Cảnh - Vô Danh dịch)
Hay:
Địa
tịch đài du cổ,
Thời
lai xuân vị thâm.
Vân
sơn tương viễn cận,
Hoa
kính bán tình âm.
Vạn
sự thủy lưu thủy,
Bách
niên tâm vấn tâm.
Ỷ
lan hoàng ngọc địch,
Minh
nguyệt mãn hung khâm.
(Đăng Bảo Đài Sơn - Trần Nhân Tông)
Nguyễn
Thủy Nam dịch như sau:
Lên núi Bảo Đài
Đất
xa Đài cổ kính,
Ngày
tháng mới vào xuân.
Gần
xa tuôn mây núi,
Đường
hoa nửa bóng lồng.
Muôn
việc nước trôi nước,
Trăm
năm lòng nhủ lòng.
Bên
hiên thổi sáo ngọc,
Đầy
người ánh trăng trong.
Cũng
bài thơ dó, Nguyễn Thủy Nam dịch ra thơ thất ngôn đường luật như sau:
Bảo
Tháp nằm im khuất cõi xa,
Sơ
xuân năm tháng mới la đà.
Gần
xa mờ mịt tuôn mây núi,
Bóng
rợp che vừa nửa ngõ hoa.
Muôn
việc rồi như dòng nước chảy,
Trăm
năm ta tự nhủ lòng ta.
Bên
hiên sáo ngọc đưa ngang mặt,
Vạt
áo lung linh ánh nguyệt tà.
Gần xa mờ mịt tuôn mây núi |
Nhà
thơ Nguyễn Trãi, vào thế kỷ XV, đang lúc xuân sang, nhìn cây cỏ đâm cành non lá mới, xanh mướt, êm đềm...
khiến lòng người thêm nhàn nhã thảnh thơi, như muốn hòa nhập vào cảnh sắc của vũ
trũ, của thiên nhiên, giữa lúc xuân mới về còn lãng đãng khói sương:
Độ
đầu xuân thảo lục như yên,
Xuân
vũ thiêm lai thủy phách thiên.
Dã
kính hoang lương, hành khách thiểu,
Cô
chu trấn nhật các sa miên.
(Trại đầu xuân độ)
Kiều
Văn dịch ra như sau:
Bến xuân đầu trại
Cỏ
xuân đầu bến xanh như khói,
Chan
chứa mưa xuân nước vỗ trời.
Đường
nội hoang vu, hành khách ít,
Thuyền
kề bãi cát, suốt ngày ngơi.
Thuyền kề bãi cát |
Ngô
Chi Lan, nhà thơ nữ Việt Nam vào cuối thế kỷ XV đã vẽ lại cảnh tượng một mùa xuân
Việt Nam thuở thái bình thịnh trị (dưới triều vua Lê Thánh Tông), đầy màu sắc
huy hoàng ấm áp, cỏ cây, hoa bướm lộng lãy của vườn xuân rực nắng, ngát hương:
Khí
trời ấm áp đượm hơi dương,
Thấp
thoáng lâu đài vẻ ác vàng.
Rèm
liễu líu lo oanh hót gió,
Bụi
hoa phất phới bướm châm hương.
Trong
Truyện Kiều, ta cũng thấy nhiều nơi cũng chan hoà, lai láng thơ xuân... Thi hào
Nguyễn Du thường diễn tả cảnh sắc mùa xuân êm đềm, trong sáng, trẻ trung và, tươi
mát của một thiên nhiên rộn rã, nghe ra phơi phới xuân tình:
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa... |
Cỏ
non xanh tận chân trời,
Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa...
Hay:
Trước
sau nào thấy bóng người,
Hoa
đào năm ngoái còn cười gió đông.
Và:
Gần
xa nô nức yến oanh,
Chị
em sắm sửa bộ hành du xuân.
Dập
dìu tài tử giai nhân,
Ngựa
xe như nước, áo quần như nêm...
Để
khép lại một khoảng trời xuân trong thơ cổ điển, chúng ta có thể mượn nét bút của
nữ sĩ tài hoa Hồ Xuân Hương qua bài thơ Đài Khán Xuân, sáng tác có lẽ vào đầu
thế kỷ 19, để cùng thưởng thức cảnh sắc êm đềm, thơ mộng, trong sáng của xuân xưa,
ngày nào trên quê hương miền Bắc. Nơi mà những khách thơ trong khi nhàn nhã du
xuân, mà lắm khi, tâm tình vẫn còn nặng một chút cảm hoài trước cảnh tình nghìn
năm kim cổ và trước những biến thiên lịch sử đoạn trường:
Êm
ái chiều xuân đến Khán Đài,
Lâng
lâng chẳng bợn chút trần ai.
Ba
hồi chiêu mộ chuông gầm sóng,
Một
vũng tang thương nước lộn trời....
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương. |
Tâm
tình đó hình như cũng đồng điệu với Bà Huyện Thanh Quan, người đã nặng lòng với
nước non, đã cảm hoài trước lẽ vô thường của tạo vật, và trước biết bao tang thương
dâu biển, vật đổi sao dời của cảnh sắc, của thời gian:
Tạo
hóa gây chi cuộc hí trường,
Đén
nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối
xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền
cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá
vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước
còn cau mặt với tang thương.
Nghìn
năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh
đấy, người đây luống đoạn trường!
(Thăng Long thành hoài cổ)
Nguyễn
Thủy Nam, South Australia - xuân 2013
3 nhận xét:
Kình Càrem viết
Đúng là Thầy Giõng, thượng thừa công phu Đường thi cũng như Thơ Mới.
Mong Thầy luôn mạnh khỏe, nhiều niềm vui, bình an và hạnh phúc nhiều nhiều.
Năm mới kính chúc Thay thật nhiều sức khỏe và mọi sự như ý.
Thấy ơi ,bây giờ " trên đầu già tới rồi" đọc dược nhửng bài thơ cổ điển - thấy tuyệt vời , thú vị quá.Cám ơn Th đã sưu tập và post lên cho tụi em đọc. B Tuyền.
Ngày xưa học quốc văn với thầy em cũng rất thích thơ của Bà Huyện Thanh Quan.Cám ơn thầy đã ghi lại bài thơ Thăng Long Thành Hoài Cổ
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Đầu năm em chúc thầy Luôn mạnh khỏe,minh mẫn và vui tươi để viết được nhiều hơn.
Lê khuyên
Đăng nhận xét